5. Nghị luận trong văn bản tự sự
Soạn bài Nghị luận trong văn bản tự sự siêu ngắn
<div id="box-content">
<div style="margin-bottom: 10px; clear: both;">
<p><span style="color: #000000;"><strong>Phần I. </strong><strong>TÌM HIỂU YẾU TỐ NGHỊ LUẬN TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ</strong></span></p>
</div>
<div id="sub-question-1" class="box-question top20">
<p><span style="color: #000000;"><strong><strong><strong>Trả lời câu hỏi </strong></strong></strong><strong><strong><strong>(trang 138 SGK Ngữ văn 9, tập 1)</strong></strong></strong></span></p>
<p><span style="color: #000000;"><strong>a. Những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong hai đoạn trích trên:</strong></span></p>
<p><span style="color: #000000;">Đoạn 1:<strong> </strong>Đây là suy nghĩ nội tâm của ông giáo trong truyện <em>Lão Hạc</em> của Nam Cao</span></p>
<p><span style="color: #000000;">a.</span></p>
<p><span style="color: #000000;">- Nếu ta không cố tình hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện…</span></p>
<p><span style="color: #000000;">- Vợ mình không ác nhưng thị khổ quá rồi.</span></p>
<p><span style="color: #000000;">- Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình.</span></p>
<p><span style="color: #000000;">- Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa.</span></p>
<p><span style="color: #000000;">- Mình biết vậy nên mình chỉ buồn nhưng không nỡ giận.</span></p>
<p><span style="color: #000000;">=> Nêu vấn đề: Nếu ta không cố tìm mà hiểu những người xung quanh thì ta luôn có cớ để tàn nhẫn và độc ác với họ.</span></p>
<p><span style="color: #000000;">b.</span></p>
<p><span style="color: #000000;"><strong>Luận điểm:</strong></span></p>
<p><span style="color: #000000;">+ <em>Nếu ta không cố tìm mà hiểu những người xung quanh mình thì ta chỉ thấy toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thương…</em> Đây là luận điểm có tính chất đặt vấn đề.</span></p>
<p><span style="color: #000000;">+ <em>Vợ tôi không ác, nhưng vì thị khổ quá rồi nên sinh ra ích kỉ, tàn nhẫn với người khác</em>. Đây là luận điểm có tính chất phát triển lập luận, triển khai vấn đề nghị luận. Các luận chứng và lí lẽ được đưa ra: <em>một người đau chân….; khi người ta khổ quá thì…</em></span></p>
<p><span style="color: #000000;">+ <em>Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận</em>. Đây là luận điểm kết luận, kết thúc lập luận.</span></p>
<p><span style="color: #000000;">⟹ Với việc lập luận như trên, tác giả đã "kể được" câu chuyện về nỗi giằng xé, trăn trở, bi kịch bên trong con người; khẳng định về quan điểm nhìn nhận, đánh giá con người và cuộc đời. Đồng thời, phác ra được thực trạng nhân sinh cùng khổ trong bối cảnh xã hội đầu thế kỉ XX.</span></p>
<p><span style="color: #000000;">Về hình thức, đoạn văn trên chứa rất nhiều từ, câu mang tính lập luận. Đó là các câu hô ứng thể hiện các phán đoán dưới dạng nếu thì; vì thế... cho nên, sở dĩ... là vì; khi A... thì B... Các câu văn trong đoạn trích đều là những câu khẳng định, ngắn gọn, khúc chiết như diễn những chân lý.</span></p>
<p><span style="color: #000000;"><strong>Đoạn 2:</strong></span></p>
<p><span style="color: #000000;">a. Qua đoạn trích <em>Thúy Kiều báo ân báo oán</em>, có thể thấy cuộc đôi thoại giữa Kiều và Hoạn Thư được diễn ra dưới hình thức nghị luận. Hình thức này rất phù hợp với một phiên tòa. Trước tòa án, quan trọng nhất là người ta phải trình bày lý lẽ, chứng lý, nhân chứng, vật chứng... sao cho có sức thuyết phục. Trong phiên tòa này, Kiều là luật sư buộc tội, còn Hoạn Thư là bị cáo. Mỗi bên đều có lập luận của mình.</span></p>
<p><span style="color: #000000;">b.</span></p>
<p><span style="color: #000000;">- Lập luận của Thúy Kiều:</span></p>
<p><span style="color: #000000;">+ Xưa nay, đàn bà có mấy người ghê ghớm, cay nghiệt như mụ</span></p>
<p><span style="color: #000000;">+ Càng cay nghiệt càng chuốc nhiều oan trái (Đây là kiểu câu khẳng định).</span></p>
<p><span style="color: #000000;">- Lập luận của Hoạn Thư:</span></p>
<p><span style="color: #000000;">+ Thứ nhất: mình là đàn bà, ghen tuông là chuyện bình thường.</span></p>
<p><span style="color: #000000;">+ Thứ hai: mình đã đối xử rất tốt với cô khi cô chép kinh ở "Quan Âm Các".</span></p>
<p><span style="color: #000000;">+ Thứ ba: mình và cô đều là cảnh chồng chung nên chẳng nhường cho nhau được...</span></p>
<p><span style="color: #000000;">+ Thứ tư: dù sao mình đã gây ra nhiều đau khổ cho cô, giờ đây mình chỉ còn trông vào lòng khoan dung rộng lớn của cô.</span></p>
<p><span style="color: #000000;">- Hình thức: Thúy Kiều sử dụng hình thức câu khẳng định, càng...càng => Khẳng định tội ác của Hoạn Thư.</span></p>
</div>
<div id="sub-question-2" class="box-question top20">
<p><span style="color: #000000;"><strong> Phần II. </strong><strong>LUYỆN TẬP</strong></span></p>
<div style="text-align: center; margin-top: 15px; margin-bottom: 15px;"><span style="color: #000000;"><!-- lgh-detail-inject-middle-content --></span></div>
</div>
<div id="sub-question-3" class="box-question top20">
<p><span style="color: #000000;"><strong> Câu 1</strong></span></p>
<div style="margin-bottom: 10px; clear: both;">
<p><span style="color: #000000;"><strong><strong><strong>Trả lời câu 1 (trang 139 SGK Ngữ văn 9, tập 1)</strong></strong></strong></span></p>
</div>
<p><span style="color: #000000;">Lời văn trong đoạn trích (a) mục I.1 là lời của<strong> </strong>ông giáo, ông giáo đối thoại với chính mình, thuyết phục chính mình, rằng vợ mình không ác để “chỉ buồn chứ không nỡ giận”.</span></p>
</div>
<div id="sub-question-4" class="box-question top20">
<p><span style="color: #000000;"><strong> Câu 2</strong></span></p>
<div style="margin-bottom: 10px; clear: both;">
<p><span style="color: #000000;"><strong><strong><strong>Trả lời câu 2 (trang 139 SGK Ngữ văn 9, tập 1)</strong></strong></strong></span></p>
</div>
<p><span style="color: #000000;">Lập luận của Kiều thể hiện ở mấy câu đầu. Sau câu chào mỉa mai là lời đay nghiến: xưa nay đàn bà có mấy người ghê gớm, cay nghiệt như mụ, và xưa nay càng cay nghiệt thì càng chuốc lấy oan trái. Hoạn Thư trong cơn “hồn lạc phách xiêu” ấy vẫn biện minh cho mình bằng một đoạn lập luận thật xuất sắc. Trong 8 dòng thơ, Hoạn Thư nêu lên 4 “luận điểm”:</span></p>
<p><span style="color: #000000;">- Thứ nhất: Tôi là đàn bà nên ghen tuông là chuyện thường tình (nêu một lẽ thường).</span></p>
<p><span style="color: #000000;">- Thứ hai: Ngoài ra tôi cũng đã đối xử rất tốt với cô khi ở gác viết kinh; khi cô trốn khỏi nhà, tôi cũng chẳng đuổi theo (kể công).</span></p>
<p><span style="color: #000000;">- Thứ ba: Tôi với cô đều trong cảnh chồng chung, chắc gì ai nhường cho ai.</span></p>
<p><span style="color: #000000;">- Thứ tư: Nhưng dù sao tôi cũng đã trót gây đau khổ cho cô nên bây giờ chỉ biết trông chờ vào lượng khoan dung rộng lớn của cô (nhận tội và đề cao, tâng bốc Kiều).</span></p>
<p><span style="color: #000000;">Với lập luận trên, Kiều phải công nhận tài của Hoạn Thư là “Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời”. Và cũng chính nhờ lập luận ấy mà Hoạn Thư đã đặt Kiều vào một tình thế rất khó “xử”:</span></p>
<p style="text-align: center;"><span style="color: #000000;"><em>Tha ra thì cũng may đời,</em></span></p>
<p style="text-align: center;"><span style="color: #000000;"><em>Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.</em></span></p>
<p align="right"> </p>
</div>
<div id="end_sub_question_nav"></div>
</div>
Xem lời giải bài tập khác cùng bài