6. Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng)
<h3 data-v-5af8f31c=""><span data-v-5af8f31c="">6. Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học</span></h3>
<p style="font-weight: 400;"><strong>Đề b&agrave;i</strong></p> <p style="font-weight: 400;"><strong>(trang 91, SGK Ngữ văn 8, t&acirc;̣p 1)</strong></p> <p style="font-weight: 400;">Ph&acirc;n tích m&ocirc;̣t tác ph&acirc;̉m văn học là làm rõ những nét đặc sắc v&ecirc;̀ n&ocirc;̣i dung và hình thức ngh&ecirc;̣ thu&acirc;̣t của tác ph&acirc;̉m. Vi&ecirc;̣c ph&acirc;n tích m&ocirc;̣t bài thơ trào phúng cũng c&acirc;̀n được tri&ecirc;̉n khai theo hướng đó. Ở bài học này, em sẽ được thực hành vi&ecirc;́t bài văn ph&acirc;n tích m&ocirc;̣t bài thơ trào phúng, qua đó vừa củng c&ocirc;́ kĩ năng đọc hi&ecirc;̉u, ti&ecirc;́p nh&acirc;̣n m&ocirc;̣t bài thơ trào phúng, vừa ti&ecirc;́p tục phát tri&ecirc;̉n kĩ năng ph&acirc;n tích m&ocirc;̣t bài thơ mà em đã được rèn luy&ecirc;̣n ở bài 2.</p> <p style="font-weight: 400;"><strong><em>Y&ecirc;u c&acirc;̀u:</em></strong></p> <p style="font-weight: 400;">- Giới thi&ecirc;̣u tác giả và bài thơ</p> <p style="font-weight: 400;">- Ph&acirc;n tích được n&ocirc;̣i dung trào phúng của bài thơ đ&ecirc;̉ làm rõ chủ đ&ecirc;̀.</p> <p style="font-weight: 400;">- Chỉ ra được tác dụng của m&ocirc;̣t s&ocirc;́ nét đặc sắc v&ecirc;̀ ngh&ecirc;̣ thu&acirc;̣t trào phúng được th&ecirc;̉ hi&ecirc;̣n trong bài thơ.</p> <p style="font-weight: 400;">- Khẳng định được giá trị, ý nghĩa của bài thơ.</p> <p><strong>Phương ph&aacute;p giải - Xem chi tiết</strong></p> <p>Dựa v&agrave;o những gợi &yacute; đ&atilde; cho trong s&aacute;ch gi&aacute;o khoa để ph&acirc;n t&iacute;ch một b&agrave;i thơ tr&agrave;o ph&uacute;ng.</p> <p style="font-weight: 400;"><strong>Lời giải chi tiết</strong></p> <p style="font-weight: 400;">Ph&acirc;n t&iacute;ch b&agrave;i Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu:</p> <p style="font-weight: 400;">Trần Tế Xương cay nhất l&agrave; chuyện thi cử. T&agrave;i giỏi như &ocirc;ng m&agrave; phải đến lần thi thứ t&aacute;m mới đậu v&eacute;t được c&aacute;i t&uacute; t&agrave;i. M&agrave; T&uacute; t&agrave;i thời đ&oacute; th&igrave; được tiếng l&agrave; &ldquo;&ocirc;ng T&uacute;&rdquo; nhưng chỉ được &ldquo;l&agrave;m quan tại gia&rdquo;, &ldquo;ăn lương vợ&rdquo;. Nhưng kh&ocirc;ng được th&ecirc;nh th&ecirc;nh tr&ecirc;n đường hoạn lộ chưa hẳn đ&atilde; l&agrave; rủi, th&igrave; &ocirc;ng T&uacute; Xương l&agrave;m thơ, l&agrave;m thi sĩ, th&agrave;nh thi h&agrave;o! B&agrave;i thơ &ldquo;Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu&rdquo; l&agrave; một đ&ograve;n trời gi&aacute;ng của T&uacute; Xương v&agrave;o chế độ thi cử mạt vận, hổ lốn, &ocirc; nhục của thời thực d&acirc;n mới đặt ch&acirc;n cai trị đất nước ta.</p> <p style="font-weight: 400;">L&agrave; sĩ tử, cũng l&agrave; nạn nh&acirc;n trong k&igrave; thi Hương năm Đinh Dậu (1897), tại Nam Định, Trần Tế Xương tận mắt chứng kiến sự suy đồi của Nho học, đau l&ograve;ng trước nỗi &ocirc; nhục của t&agrave;i tử văn nh&acirc;n đất Bắc. Cho n&ecirc;n mở đầu b&agrave;i thơ, t&aacute;c giả đ&atilde; ph&ecirc; ph&aacute;n s&acirc;u sắc nh&agrave; nước thực d&acirc;n phong kiến thời bấy giờ:</p> <p style="font-weight: 400;">&ldquo;Nh&agrave; nước ba năm mở một khoa</p> <p style="font-weight: 400;">Trường Nam thi lẫn với trường H&agrave;&rdquo;</p> <p style="font-weight: 400;">T&aacute;c giả n&oacute;i &ldquo;nh&agrave; nước&rdquo; một c&aacute;ch trang trọng như vậy nếu những việc l&agrave;m của &ldquo;nh&agrave; nước&rdquo; m&agrave; t&ocirc;'t đẹp th&igrave; l&agrave; ngợi ca, c&ograve;n nếu n&oacute;i đến những việc l&agrave;m của &ldquo;nh&agrave; nước&rdquo; kh&ocirc;ng ra g&igrave; th&igrave; l&agrave; &ldquo;hạ bệ&rdquo;. R&otilde; r&agrave;ng l&agrave; T&uacute; Xương đ&atilde; &ldquo;hạ bệ&rdquo; c&aacute;i &ldquo;nh&agrave; nước&rdquo; thực d&acirc;n phong kiến đ&oacute; bằng sự kiện &ldquo;ba năm mở một khoa&rdquo;. Dưới sự cai trị của &ldquo;nh&agrave; nước&rdquo; thực d&acirc;n, đạo học (chữ Nho) đ&atilde; mạt vận. &ldquo;nh&agrave; nước&rdquo; chỉ mở k&igrave; thi cầm chừng, hổ lốn, mất hết vẻ trang nghi&ecirc;m của kỳ thi quốc gia: &ldquo;Trường Nam thi lẫn với trường H&agrave;&rdquo;. Sợ mất an ninh ở H&agrave; Nội, &ldquo;nh&agrave; nước&rdquo; thực d&acirc;n đ&atilde; lừa sĩ tử H&agrave; Nội xuống Nam Định &ldquo;thi lẫn&rdquo; với sĩ tử trường Nam. Chỉ một từ &ldquo;lẫn&rdquo;, T&uacute; Xương phơi b&agrave;y cả sự đổ n&aacute;t của kỳ thi quốc gia v&agrave; ph&ecirc; ph&aacute;n &ldquo;nh&agrave; nước&rdquo; v&ocirc; tr&aacute;ch nhiệm.</p> <p style="font-weight: 400;">Sang hai c&acirc;u thực, sĩ tử v&agrave; quan trường được nh&agrave; thơ T&uacute; Xương biếm họa rất t&agrave;i t&igrave;nh:</p> <p style="font-weight: 400;">&ldquo;L&ocirc;i th&ocirc;i sĩ tử vai đeo lọ</p> <p style="font-weight: 400;">Ậm ọe quan trường miệng th&eacute;t loa&rdquo;</p> <p style="font-weight: 400;">T&uacute; Xương c&oacute; biệt t&agrave;i m&agrave; Nguyễn C&ocirc;ng Hoan t&ocirc;n như &ldquo;thần thơ th&aacute;nh chữ&rdquo; l&agrave; chỉ trong một chữ đ&atilde; lột tả được thần th&aacute;i của sự vật. Chỉ một từ &ldquo;l&ocirc;i th&ocirc;i&rdquo; được đảo ra ph&iacute;a trước, nhấn mạnh l&agrave; h&igrave;nh ảnh của sĩ tử bị ch&igrave;m trong sự nhếch nh&aacute;c. Sĩ tử m&agrave; b&uacute;t mực đ&acirc;u kh&ocirc;ng thấy, chỉ nổi bật lủng lẳng một c&aacute;i lọ (v&igrave; đường xa, phải đeo theo lọ nước uống). H&agrave;ng ng&agrave;n &ldquo;sĩ tử vai đeo lọ&rdquo; th&igrave; l&ocirc;i th&ocirc;i thật, l&agrave; bức tranh biếm họa để đời về anh học tr&ograve; đi thi trong thời buổi thực d&acirc;n nhố nhăng. C&ograve;n quan trường th&igrave; &ldquo;ậm ọe&rdquo; giọng như mửa. Sĩ tử th&igrave; đ&ocirc;ng v&igrave; dồn cả hai trường thi lại n&ecirc;n quan trường phải &ldquo;th&eacute;t loa&rdquo; lại c&ograve;n l&ecirc;n giọng đe nẹt sĩ tử n&ecirc;n th&agrave;nh ra &ldquo;ậm ọe&rdquo; tởm lợm thật đ&aacute;ng gh&eacute;t. Th&aacute;i độ tr&agrave;o lộng của nh&agrave; thơ thật r&otilde; r&agrave;ng. Đối với &ldquo;sĩ tử&rdquo;, T&uacute; Xương thấy nhếch nh&aacute;c đ&aacute;ng thương; đối với &ldquo;quan trường&rdquo;, T&uacute; Xương khinh gh&eacute;t ra mặt. Quan trường của một k&igrave; thi quốc gia b&aacute;t nh&aacute;o m&agrave; c&ograve;n &ldquo;ậm ọe&rdquo; kh&ocirc;ng biết nhục.</p> <p style="font-weight: 400;">T&uacute; Xương c&ograve;n ghi lại một hiện tượng chưa từng thấy trong lịch sử thi cử của nước nh&agrave; l&agrave; &ldquo;khoa thi Đinh Dậu&rdquo;, c&oacute; cả T&acirc;y đầm nhốn nh&aacute;o ở trường thi:</p> <p style="font-weight: 400;">&ldquo;Cờ cắm rợp trời quan sứ đến</p> <p style="font-weight: 400;">V&aacute;y l&ecirc; phết đất mụ đầm ra&rdquo;</p> <p style="font-weight: 400;">&ldquo;Cờ cắm&rdquo; hay &ldquo;Lọng cắm&rdquo;? S&aacute;ch gi&aacute;o khoa hiện h&agrave;nh ch&eacute;p l&agrave; &ldquo;Cờ cắm&rdquo;, c&oacute; ch&uacute; th&iacute;ch l&agrave;: c&oacute; bản ch&eacute;p: &ldquo;Lọng cắm&rdquo;. Thơ T&uacute; Xương gần với thơ ca d&acirc;n gian, nh&agrave; thơ s&aacute;ng t&aacute;c kh&ocirc;ng in ấn, kh&ocirc;ng xuất bản, người đời nghe rồi ghi lại n&ecirc;n dễ &ldquo;tam sao thất bản&rdquo;. Trong những trường hợp c&oacute; dị bản như thế n&agrave;y th&igrave; buộc người đọc, người nghi&ecirc;n cứu phải lựa chọn. Người soạn s&aacute;ch gi&aacute;o khoa chọn &ldquo;cờ cắm&rdquo; để đối với &ldquo;v&aacute;y l&ecirc;&rdquo; ở c&acirc;u dưới cho thật độc. &ldquo;Cờ&rdquo; m&agrave; đối với &ldquo;v&aacute;y&rdquo; độc qu&aacute;! Theo t&ocirc;i, &ldquo;lọng cắm&rdquo; hay hơn:</p> <p style="font-weight: 400;">&ldquo;Lọng cắm rợp trời quan sứ đến&rdquo;</p> <p style="font-weight: 400;">Quan sứ (c&ocirc;ng sứ Nam Định Lơ Nooc Măng, đ&egrave;n dự lễ xướng danh khoa thi Hương hẳn l&agrave; phải c&oacute; &ldquo;lọng cắm rợp trời&rdquo; m&agrave; &ldquo;lọng cắm&rdquo; th&igrave; mới &ldquo;rợp trời&rdquo;. C&ograve;n vế đối &ldquo;Lọng cắm rợp trời&rdquo; với &ldquo;v&aacute;y l&ecirc; phết đất&rdquo; cũng chỉnh qu&aacute;, m&agrave; độc địa kh&ocirc;ng k&eacute;m. Lọng l&agrave; c&aacute;i che tr&ecirc;n đầu &ldquo;quan sứ&rdquo; m&agrave; lại đ&ocirc;i với &ldquo;v&aacute;y&rdquo; l&agrave; c&aacute;i che dưới m&ocirc;ng &ldquo;mụ đầm&rdquo;! &ldquo;Quan sứ&rdquo; đến&rdquo;, &ldquo;mụ đầm ra&rdquo;, ch&uacute;ng n&oacute; &ldquo;đến&rdquo;, n&oacute; &ldquo;ra&rdquo; như thế th&igrave; nhục qu&aacute;, kh&ocirc;ng chịu được, T&uacute; Xương đ&atilde; chơi một đ&ograve;n tr&iacute; mạng v&agrave;o bọn T&acirc;y đầm thực d&acirc;n nhốn nh&aacute;o v&agrave;o c&aacute;i thời buổi nhố nhăng! T&uacute; Xương &aacute;c khẩu trong c&aacute;ch đối chữ đ&ocirc;i c&acirc;u, c&aacute;i t&ocirc;n nghi&ecirc;m đem đọ với những c&aacute;i kh&ocirc;ng tiện h&ocirc; đ&uacute;ng t&ecirc;n thật, &ocirc;ng lợm sự s&ocirc;ng, &ocirc;ng cho lộn t&ugrave;ng ph&egrave;o cả đi. Nghĩ về người quan văn người quan v&otilde; thời nh&iacute; nhố ấy, &ocirc;ng đem c&aacute;i v&otilde;ng (v&otilde;ng điểu v&otilde;ng thắm) ra m&agrave; đối với c&aacute;i khố d&acirc;y (khố đỏ khố xanh). Tường thuật việc trường thi chữ nho c&oacute; T&acirc;y đến ra b&agrave;i, &ocirc;ng đem c&aacute;i lọng quan sứ m&agrave; đối với c&aacute;i v&aacute;y mụ đầm, đem c&aacute;i đ&iacute;t vịt b&agrave; đầm ra đối với c&aacute;i đầu rồng một &ocirc;ng cử dốt đang lạy tạ mũ &aacute;o vua ban... (Nguyễn Tu&acirc;n).</p> <p style="font-weight: 400;">Kết th&uacute;c b&agrave;i thơ, t&aacute;c giả chuyển từ giọng điệu tr&agrave;o lộng sang giọng điệu trữ t&igrave;nh th&acirc;m trầm. T&uacute; Xương đau l&ograve;ng nhắn nhủ với &ldquo;nh&acirc;n t&agrave;i đất Bắc&rdquo;:</p> <p style="font-weight: 400;">&ldquo;Nh&acirc;n t&agrave;i đất Bắc n&agrave;o ai đ&oacute;<br />Ngoảnh cổ m&agrave; tr&ocirc;ng lại nước nh&agrave;&rdquo;</p> <p style="font-weight: 400;">Giọng trữ t&igrave;nh thấm th&igrave;a ấy như c&oacute; sự cộng hưởng của giọng điệu trữ t&igrave;nh đầy nhiệt huyết của c&aacute;c nh&agrave; &aacute;i quốc đầu thế kỷ như Phan Bội Ch&acirc;u, Phan Ch&acirc;u Trinh, Huỳnh Th&uacute;c Kh&aacute;ng... Tất nhi&ecirc;n trong giọng điệu chung của những tấm l&ograve;ng &aacute;i quốc ấy, ta vẫn nhận ra sắc th&aacute;i ri&ecirc;ng của T&uacute; Xương. Khi th&igrave; x&oacute;t xa thổn thức &ldquo;Nh&acirc;n t&agrave;i đất Bắc n&agrave;o ai đ&oacute;&rdquo;, khi th&igrave; ki&ecirc;u bạc trịch thượng &ldquo;Ngoảnh cổ m&agrave; tr&ocirc;ng lại nước nh&agrave;&rdquo;. Kh&ocirc;ng dễ g&igrave; m&agrave; hạ một chữ &ldquo;ngoảnh cổ&rdquo; như vậy đối với giới tr&iacute; thức Bắc H&agrave;. Phải c&oacute; ch&acirc;n t&agrave;i v&agrave; quan trọng hơn nữa l&agrave; phải c&oacute; tấm l&ograve;ng đối với đất nước, với d&acirc;n tộc th&igrave; nh&acirc;n t&agrave;i đất Bắc mới t&acirc;m phục. Đ&uacute;ng l&agrave; t&acirc;m sự y&ecirc;u nước thổn thức của T&uacute; Xương l&agrave; vật bảo chứng cho những g&igrave; l&agrave; lộng ng&ocirc;n của nh&agrave; thơ:</p> <p style="font-weight: 400;">&ldquo;Trời kh&ocirc;ng chớp bể chẳng mưa nguồn<br />Đ&ecirc;m nảo đ&ecirc;m nao tớ cũng buồn&rdquo;</p> <p style="font-weight: 400;">(Đ&ecirc;m h&egrave;)</p> <p style="font-weight: 400;">Dưới mắt T&uacute; Xương, sự suy đồi của đạo học (chữ nho) l&agrave; một hiện tượng của sự mất nước, của sự n&ocirc; lệ. Với T&uacute; Xương, nỗi nhục trong &ldquo;Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu&rdquo; l&agrave; nỗi nhục mất nước! &ldquo;Theo t&ocirc;i nghĩ, thơ l&agrave; ảnh, l&agrave; nh&acirc;n ảnh, thơ cũng ở loại cụ thể hữu h&igrave;nh. Nhưng n&oacute; kh&aacute;c với c&aacute;i cụ thể của văn. Cũng mọc l&ecirc;n từ c&aacute;i đ&ocirc;ng t&agrave;i liệu thực tế, nhưng từ một c&aacute;i hữu h&igrave;nh n&oacute; thức dậy được những v&ocirc; h&igrave;nh bao la, từ một c&aacute;i điểm nhất định m&agrave; n&oacute; mở được ra một c&aacute;i diện kh&ocirc;ng gian, thời gian trong đ&oacute; nhịp m&atilde;i l&ecirc;n một tấm l&ograve;ng sứ điệp&rdquo; (Nguyễn Tu&acirc;n).</p> <p style="font-weight: 400;">&ldquo;Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu&rdquo; của Trần Tế Xương l&agrave; &ldquo;sử thi&rdquo; về đời sống nh&agrave; nho l&uacute;c T&acirc;y sang. Đạo học suy đồi, thi cử b&aacute;t nh&aacute;o hố&rsquo; lốn, sĩ tử mất hết nhuệ kh&iacute;, quan trường mất hết nh&acirc;n c&aacute;ch. Bọn thực d&acirc;n ngh&ecirc;nh ngang đến trường thi l&agrave; một nỗi &ocirc; nhục của nh&acirc;n t&agrave;i đất Bắc. Nỗi đau của nh&agrave; thơ đ&atilde; l&agrave;m thức tỉnh tầng lớp tr&iacute; thức đương thời.</p> <p style="font-weight: 400;">Nghệ thuật tr&agrave;o lộng v&agrave; trữ t&igrave;nh của T&uacute; Xương đều s&acirc;u sắc, thấm th&iacute;a. Đối với sĩ tử, nh&agrave; thơ thương m&agrave; cười, đối với quan trường, nh&agrave; thơ căm gh&eacute;t m&agrave; ch&acirc;m biếm, đối với bọn thực d&acirc;n, nh&agrave; thơ căm th&ugrave; m&agrave; đả k&iacute;ch, hạ nhục. Từ ngữ, h&igrave;nh ảnh, &acirc;m điệu, b&uacute;t ph&aacute;p của b&agrave;i thơ bộc lộ t&agrave;i hoa của một hồn thơ lỗi lạc. Đ&uacute;ng như lời ngợi ca của Y&ecirc;n Đổ:</p> <p style="font-weight: 400;">&ldquo;Kia ai ch&iacute;n suối xương kh&ocirc;ng n&aacute;t<br />C&oacute; lẽ ngh&igrave;n thu tiếng vẫn c&ograve;n&rdquo;</p> <p>&nbsp;</p>
Xem lời giải bài tập khác cùng bài