Hướng dẫn em bài này với ạ
Trả lời
Gia sư Hải Yến
13:34, 22/09/2025
Em tham khảo nhé
Trong kho tàng văn học trung đại Việt Nam, hai tác phẩm Thu vịnh của Nguyễn Khuyến và Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan đều là những thi phẩm đặc sắc, vừa ghi lại vẻ đẹp thiên nhiên, vừa gửi gắm tâm sự của con người trước cuộc đời. Tuy cùng xuất phát từ cảm hứng trước cảnh vật, nhưng mỗi bài thơ lại mang sắc thái riêng, tạo nên sự khác biệt trong phong cách nghệ thuật và tư tưởng.
Trước hết, cả hai bài thơ đều lấy cảnh thiên nhiên làm nền tảng biểu đạt cảm xúc. Thu vịnh vẽ nên một bức tranh mùa thu điển hình của làng quê Bắc Bộ: bầu trời cao xanh, dòng nước biếc, trăng soi song thưa, hoa cúc, tiếng chim… Những chi tiết quen thuộc ấy hiện lên tinh tế, trong sáng, đậm chất dân dã. Trong khi đó, Qua Đèo Ngang lại mở ra khung cảnh hoang sơ, vắng lặng của một vùng núi đèo: “cỏ cây chen đá, lá chen hoa”, “lom khom dưới núi tiều vài chú”, “lác đác bên sông chợ mấy nhà”. Nếu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến gần gũi, ấm áp thì cảnh Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan lại gợi sự hiu quạnh, thưa thớt, man mác nỗi buồn.
Điểm gặp gỡ trong hai bài thơ chính là nỗi niềm của con người trước cảnh vật. Nguyễn Khuyến ẩn chứa tâm trạng bế tắc, lỡ dở: ngòi bút muốn viết nhưng rồi lại buông, thẹn với ông Đào Tiềm – một ẩn sĩ thanh cao. Đó là tâm sự của một trí thức nặng lòng với thời thế nhưng bất lực, chỉ biết gửi gắm vào cảnh thu. Bà Huyện Thanh Quan, khi dừng chân nơi Đèo Ngang, cũng thổn thức nhớ nước thương nhà, nỗi cô đơn của kẻ lữ khách xa quê càng thêm da diết. Như vậy, cả hai tác giả đều dùng thiên nhiên để nói hộ tâm trạng, song Nguyễn Khuyến nghiêng về nỗi niềm bất lực, u hoài trước thời cuộc, còn Bà Huyện Thanh Quan gợi lên nỗi nhớ thương và cô đơn của một người phụ nữ.
Về nghệ thuật, cả hai bài thơ đều viết theo thể Đường luật, nhưng mỗi người có cách vận dụng riêng. Nguyễn Khuyến tinh tế trong việc chọn lọc chi tiết nhỏ bé, gần gũi của làng quê để dựng nên bức tranh thu thanh nhã, giàu tính dân tộc. Ngược lại, Bà Huyện Thanh Quan chú trọng phép đối, gieo từ láy “lom khom”, “lác đác” để khắc họa cái thưa vắng của cảnh vật và gợi nhịp buồn man mác. Nếu Thu vịnh giàu màu sắc, ánh sáng, âm thanh nhẹ nhàng, thì Qua Đèo Ngang chan chứa âm hưởng cổ kính, trầm buồn.
Từ sự so sánh trên, có thể khẳng định: Thu vịnh và Qua Đèo Ngang là hai tiếng lòng đồng vọng về thân phận trí thức và nỗi niềm trước cuộc đời. Một bên là tâm sự thời thế của “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”, một bên là nỗi niềm cô đơn, nhớ thương da diết của “nữ sĩ Đèo Ngang”. Cả hai đều góp phần làm phong phú thêm diện mạo thơ ca trung đại Việt Nam, để lại những dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc bao thế hệ.
Trong kho tàng văn học trung đại Việt Nam, hai tác phẩm Thu vịnh của Nguyễn Khuyến và Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan đều là những thi phẩm đặc sắc, vừa ghi lại vẻ đẹp thiên nhiên, vừa gửi gắm tâm sự của con người trước cuộc đời. Tuy cùng xuất phát từ cảm hứng trước cảnh vật, nhưng mỗi bài thơ lại mang sắc thái riêng, tạo nên sự khác biệt trong phong cách nghệ thuật và tư tưởng.
Trước hết, cả hai bài thơ đều lấy cảnh thiên nhiên làm nền tảng biểu đạt cảm xúc. Thu vịnh vẽ nên một bức tranh mùa thu điển hình của làng quê Bắc Bộ: bầu trời cao xanh, dòng nước biếc, trăng soi song thưa, hoa cúc, tiếng chim… Những chi tiết quen thuộc ấy hiện lên tinh tế, trong sáng, đậm chất dân dã. Trong khi đó, Qua Đèo Ngang lại mở ra khung cảnh hoang sơ, vắng lặng của một vùng núi đèo: “cỏ cây chen đá, lá chen hoa”, “lom khom dưới núi tiều vài chú”, “lác đác bên sông chợ mấy nhà”. Nếu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến gần gũi, ấm áp thì cảnh Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan lại gợi sự hiu quạnh, thưa thớt, man mác nỗi buồn.
Điểm gặp gỡ trong hai bài thơ chính là nỗi niềm của con người trước cảnh vật. Nguyễn Khuyến ẩn chứa tâm trạng bế tắc, lỡ dở: ngòi bút muốn viết nhưng rồi lại buông, thẹn với ông Đào Tiềm – một ẩn sĩ thanh cao. Đó là tâm sự của một trí thức nặng lòng với thời thế nhưng bất lực, chỉ biết gửi gắm vào cảnh thu. Bà Huyện Thanh Quan, khi dừng chân nơi Đèo Ngang, cũng thổn thức nhớ nước thương nhà, nỗi cô đơn của kẻ lữ khách xa quê càng thêm da diết. Như vậy, cả hai tác giả đều dùng thiên nhiên để nói hộ tâm trạng, song Nguyễn Khuyến nghiêng về nỗi niềm bất lực, u hoài trước thời cuộc, còn Bà Huyện Thanh Quan gợi lên nỗi nhớ thương và cô đơn của một người phụ nữ.
Về nghệ thuật, cả hai bài thơ đều viết theo thể Đường luật, nhưng mỗi người có cách vận dụng riêng. Nguyễn Khuyến tinh tế trong việc chọn lọc chi tiết nhỏ bé, gần gũi của làng quê để dựng nên bức tranh thu thanh nhã, giàu tính dân tộc. Ngược lại, Bà Huyện Thanh Quan chú trọng phép đối, gieo từ láy “lom khom”, “lác đác” để khắc họa cái thưa vắng của cảnh vật và gợi nhịp buồn man mác. Nếu Thu vịnh giàu màu sắc, ánh sáng, âm thanh nhẹ nhàng, thì Qua Đèo Ngang chan chứa âm hưởng cổ kính, trầm buồn.
Từ sự so sánh trên, có thể khẳng định: Thu vịnh và Qua Đèo Ngang là hai tiếng lòng đồng vọng về thân phận trí thức và nỗi niềm trước cuộc đời. Một bên là tâm sự thời thế của “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”, một bên là nỗi niềm cô đơn, nhớ thương da diết của “nữ sĩ Đèo Ngang”. Cả hai đều góp phần làm phong phú thêm diện mạo thơ ca trung đại Việt Nam, để lại những dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc bao thế hệ.



