nghệ thuật của bài mây trắng còn bay
Trả lời
Nguyễn Lê Nguyên Hạnh
19:14, 20/04/2023
Em tham khảo phần hướng dẫn dưới đấy nhé, chúc em học tốt!
Mây trắng còn bay” hay còn được biết đến với tên gọi khác là “Ngàn năm mây trắng” của Bảo Ninh là câu chuyện được kể lại bởi nhân vật “tôi” (là một hành khách trên chuyến bay) về một bà cụ lần đầu tiên đi máy bay. Khi máy bay ra khỏi vùng thời tiết xấu, bà cụ thích thú nhìn ngắm mây bay bên ngoài cửa sổ và bắt chuyện với “tay vận comple” nhưng không được hắn đáp lại. Bà cụ không ăn gì mà chỉ xin một cốc nước lúc cô tiếp viên mang đồ đến phục vụ. Khi máy bay bay qua vùng vĩ tuyến 17, nhân vật tôi thiu thiu ngủ thì bị đánh thức bởi tiếng quát của tay vận comple nạt bà cụ. Hắn bực bội vì thấy bà cụ bày biện đồ cúng trên máy bay. Hoá ra, hôm ấy là ngày giỗ anh con trai cả của bà cụ – người phi công 30 năm trước đã hi sinh trong trận chiến tại sông Bến Hải. Cô tiếp viên đứng sững bên cạnh nhân vật tôi, lặng nhìn, không nói một lời. Ngoài cửa sổ đại dương khí quyển ngời sáng.
Mây trắng còn bay” là tác phẩm ra đời sau 1975 – lúc này truyện ngắn cũng có nhiều sự đổi mới so với giai đoạn văn học trước. Ngôn ngữ truyện ngắn sau 1975 bắt đầu bớt đi vẻ trang trọng, ít du dương, rào đón mà gần gũi với đời thường, chân thật trong giọngđiệu, thô nhám trong từ ngữ. Nhà văn đưa vào tác phẩm nhiều từ ngữđịa phương, khẩu ngữ. Nghệ thuật trần thuật cũng có nhiều đổi mới, trước 1975, truyện ngắn thường chỉ có mộtđiểm nhìn trần thuật thì sau 1975, truyện ngắn được trần thuật dưới góc độđa chiều, nhiều điểm nhìn, ngôn ngữ trần thuật mang tính đối thoại, nhiều ngụ ý…
Trước hết là nhan đề truyện “Mây trắng còn bay”. Tác giả lựa chọn hình ảnh “mây trắng” để đặt tên cho tác phẩm. Và trong truyện có đến 5 lần hình ảnh này được xuất hiện tạo nên không gian bồng bềnh, hư ảo; mặt khác còn gợi sự thanh thản, bình yên. Hình ảnh “mây trắng” trong trạng thái động “còn bay” còn mang ý niệm cho sự chảy trôi của cuộc đời, của quá khứ vẫn chưa ngủ yên..
Về kết cấu, ta thấy mở đầu truyện là khung cảnh máy bay cất cánh trong mưa, khi thời tiết xấu và sự căng thẳng, nuối tiếc của các hành khách trong khoang máy bay thì kết thúc truyện là sự lặng yên của các nhân vật, là khung cảnh “đại dương khí quyển ngời sáng”, là hình ảnh “Tổ quốc tôi trên trời cao”. Kết thúc truyện với đoạn văn giàu chất thơ có tác dụng nâng chất văn xuôi trong câu chuyện lên, phả vào nó một vùng cảm xúc ấm áp, xao lòng… Kết cấu còn thể hiện cái nhìn lạc quan của nhà văn, thể hiện tinh thần cao đẹp và niềm tin vào sự bất tử của những chiến sĩ phi công bảo vệ vùng trời của Tổ quốc.
Trong truyện có bốn nhân vật nhưng tác giả chú trọng miêu tả và làm nổi bật hai nhân vật là tay vận comple và bà cụ. Nhân vật trung tâm của truyện ngắn này là nhân vật bà cụ. Các chi tiết miêu tả ngoại hình “Hình vóc bé nhỏ, teo tóp của bà như chìm lấp vào thân ghế”, “lưng còng, hai bàn tay gầy guộc” khắc hoạ rõ nét vẻ ngoài lam lũ, vất vả, khắc khổ của người mẹ, người phụ nữ Việt Nam xưa. Từ cử chỉ “bà cụ chẳng dám hỏi han gì thêm. Bà ngồi im, ôm chặt trong lòng một chiếc làn mây… bà không muốn nhận khay đồ ăn, “Tất cả các thứ hộp thứ gói trên khay bà dồn hết vào chiếc làn mây. Bà chẳng ăn chút gì… bà cũng chỉ xin một cốc nước lọc.” đến lời nói sử dụng nhiều từ ngữ đưa đẩy “các bác kìa, bác nhỉ, thưa các bác…” hay “Thảo nào hai lượt tàu bay “những” triệu bạc… Các chú cho già “thì có” khiến cho nhân vật bà cụ hiện lên với những nét đặc trưng tiêu biểu của tầng lớp nông dân ở làng quê Việt Nam: xởi lởi, cởi mở, tiết kiệm, chắt chiu. Nhưng qua đó cũng hiện lên một mảnh đời cơ cực, nhọc nhằn, vất vả. Ta vừa buồn cười khi bà chẳng dám ăn đồ ăn trên máy bay vì sợ tốn tiền, hay khi bà nhờ cô tiếp viên mở giúp cái cửa sổ máy bay cho thoáng nhưng ta lại càng thương bà cụ hơn khi biết đây là lần đầu tiên trong cuộc đời, người mẹ ấy đi máy bay, bà bày đồ cúng cho con trên máy bay, trên vùng trời con mình là chiến sĩ phi công hy sinh gần 30 năm trước. Khi chứng kiến cái dáng vẻ sợ sệt, van lơn, khẩn khoản của bà cụ với tay vận complet, ta lại càng thương cảm, xót xa.
Về sự kiện cốt truyện, phần đầu truyện, dường như tác giả chỉ kể lại những mẩu đối thoại ngắn ngủi, đơn thuần của bà cụ với các nhân vật khác khiến ta có cảm giác như nghe những màn đối thoại rời rạc, bình thường. Cho đến khi, tiếng nạt của tay vận comple vang lên với bà cụ, tiếng nạt đó không chỉ khiến nhân vật tôi giật mình mà còn là sự đánh thức sự chú ý của bạn đọc. Đến đây, diễn biến của truyện được đẩy lên đến cao trào nhưng cũng chính là sợi dây giúp bạn đọc liên kết tất cả các sự việc xảy ra trước đó: tại sao bà cụ nhắc đến hai chiếc vé máy bay được “các chú không quân cùng đơn vị với con trai già cho”, tại sao bà cụ lại hỏi máy bay sắp qua sông Bến Hải hay chưa? Đọc đến sự việc bà cụ van nài tay vận comple thì người đọc đã tự có được câu trả lời cho mình. Chỉ đến phần cuối của truyện ngắn, mọi bí mật mới được hé lộ. Vì vậy, câu chuyện càng trở nên bất ngờ, hấp dẫn và đọng lại được nhiều suy ngẫm.
Ở phần cuối của truyện, chi tiết “Tôi xoài người sang giữ lấy cái khung ảnh. Tấm ảnh được cắt ra từ một mảnh báo, đã cũ xưa, nhưng người phi công trong ảnh còn rất trẻ.” thực sự là một chi tiết đắt giá. Trong suốt tác phẩm, nhân vật tôi chủ yếu là người đứng ngoài, quan sát kể lại câu chuyện thì đến đây nhân vật tôi đã trực tiếp tham gia vào câu chuyện bằng hành động cụ thể “xoài người ra giữ lấy cái khung ảnh”. Hành động này không chỉ là hành động giúp đỡ bà cụ mà còn khẳng định sâu sắc hơn tình cảm cảm thông, trân quý đối với các bà mẹ có con hi sinh trong chiến đấu và lòng biết ơn những người lính của tác giả. Hơn nữa hình ảnh trong tờ báo “đã xưa cũ”, anh phi công “còn rất trẻ” còn có tác dụng phản ánh hiện thực khốc liệt: chính chiến tranh đã cướp đi tuổi trẻ, cướp đi sự sống của những con người quả cảm ấy và chính chiến tranh đã để lại nỗi đau dai dẳng cho người ở lại. Qua đó, ta thấy được chi tiết này vừa có giá trị hiện thực, vừa có giá trị nhân đạo, nó góp phần quan trọng vào việc thể hiện chủ đề của truyện.
Truyện ngắn “Mây trắng còn bay” là tiếng nói cảm thông, thương cảm với những bà mẹ có con hi sinh trong chiến tranh, xót xa với số phận con người thời chiến – khi họ ngã xuống ở cái tuổiđẹp nhất, hi sinh cuộc đời đểđem lại hoà bình cho dân tộc. Đồng thời tác phẩm là tiếng nói tố cáo chiến tranh, là tiếng nói phê phán lối sống ích kỉ, cá nhân của những người thời bình thờơ trước những hi sinh của những ngườiđã ngã xuống trong thời chiến. “Mây trắng còn bay” còn là sự chiêm nghiệm của tác giả về cuộc đời, vết thương chiến tranh chẳng bao giờ xoá bỏ được, nó còn mãi cùng với sự chảy trôi của cuộc đời như “mây trắng” vẫn bay. Truyện ngắn là bài học về lối sống uống nước nhớ nguồn, là sự trân trọng những hi sinh thầm lặng của con người trước, trong và sau chiến tranh.
Mây trắng còn bay” hay còn được biết đến với tên gọi khác là “Ngàn năm mây trắng” của Bảo Ninh là câu chuyện được kể lại bởi nhân vật “tôi” (là một hành khách trên chuyến bay) về một bà cụ lần đầu tiên đi máy bay. Khi máy bay ra khỏi vùng thời tiết xấu, bà cụ thích thú nhìn ngắm mây bay bên ngoài cửa sổ và bắt chuyện với “tay vận comple” nhưng không được hắn đáp lại. Bà cụ không ăn gì mà chỉ xin một cốc nước lúc cô tiếp viên mang đồ đến phục vụ. Khi máy bay bay qua vùng vĩ tuyến 17, nhân vật tôi thiu thiu ngủ thì bị đánh thức bởi tiếng quát của tay vận comple nạt bà cụ. Hắn bực bội vì thấy bà cụ bày biện đồ cúng trên máy bay. Hoá ra, hôm ấy là ngày giỗ anh con trai cả của bà cụ – người phi công 30 năm trước đã hi sinh trong trận chiến tại sông Bến Hải. Cô tiếp viên đứng sững bên cạnh nhân vật tôi, lặng nhìn, không nói một lời. Ngoài cửa sổ đại dương khí quyển ngời sáng.
Mây trắng còn bay” là tác phẩm ra đời sau 1975 – lúc này truyện ngắn cũng có nhiều sự đổi mới so với giai đoạn văn học trước. Ngôn ngữ truyện ngắn sau 1975 bắt đầu bớt đi vẻ trang trọng, ít du dương, rào đón mà gần gũi với đời thường, chân thật trong giọngđiệu, thô nhám trong từ ngữ. Nhà văn đưa vào tác phẩm nhiều từ ngữđịa phương, khẩu ngữ. Nghệ thuật trần thuật cũng có nhiều đổi mới, trước 1975, truyện ngắn thường chỉ có mộtđiểm nhìn trần thuật thì sau 1975, truyện ngắn được trần thuật dưới góc độđa chiều, nhiều điểm nhìn, ngôn ngữ trần thuật mang tính đối thoại, nhiều ngụ ý…
Trước hết là nhan đề truyện “Mây trắng còn bay”. Tác giả lựa chọn hình ảnh “mây trắng” để đặt tên cho tác phẩm. Và trong truyện có đến 5 lần hình ảnh này được xuất hiện tạo nên không gian bồng bềnh, hư ảo; mặt khác còn gợi sự thanh thản, bình yên. Hình ảnh “mây trắng” trong trạng thái động “còn bay” còn mang ý niệm cho sự chảy trôi của cuộc đời, của quá khứ vẫn chưa ngủ yên..
Về kết cấu, ta thấy mở đầu truyện là khung cảnh máy bay cất cánh trong mưa, khi thời tiết xấu và sự căng thẳng, nuối tiếc của các hành khách trong khoang máy bay thì kết thúc truyện là sự lặng yên của các nhân vật, là khung cảnh “đại dương khí quyển ngời sáng”, là hình ảnh “Tổ quốc tôi trên trời cao”. Kết thúc truyện với đoạn văn giàu chất thơ có tác dụng nâng chất văn xuôi trong câu chuyện lên, phả vào nó một vùng cảm xúc ấm áp, xao lòng… Kết cấu còn thể hiện cái nhìn lạc quan của nhà văn, thể hiện tinh thần cao đẹp và niềm tin vào sự bất tử của những chiến sĩ phi công bảo vệ vùng trời của Tổ quốc.
Trong truyện có bốn nhân vật nhưng tác giả chú trọng miêu tả và làm nổi bật hai nhân vật là tay vận comple và bà cụ. Nhân vật trung tâm của truyện ngắn này là nhân vật bà cụ. Các chi tiết miêu tả ngoại hình “Hình vóc bé nhỏ, teo tóp của bà như chìm lấp vào thân ghế”, “lưng còng, hai bàn tay gầy guộc” khắc hoạ rõ nét vẻ ngoài lam lũ, vất vả, khắc khổ của người mẹ, người phụ nữ Việt Nam xưa. Từ cử chỉ “bà cụ chẳng dám hỏi han gì thêm. Bà ngồi im, ôm chặt trong lòng một chiếc làn mây… bà không muốn nhận khay đồ ăn, “Tất cả các thứ hộp thứ gói trên khay bà dồn hết vào chiếc làn mây. Bà chẳng ăn chút gì… bà cũng chỉ xin một cốc nước lọc.” đến lời nói sử dụng nhiều từ ngữ đưa đẩy “các bác kìa, bác nhỉ, thưa các bác…” hay “Thảo nào hai lượt tàu bay “những” triệu bạc… Các chú cho già “thì có” khiến cho nhân vật bà cụ hiện lên với những nét đặc trưng tiêu biểu của tầng lớp nông dân ở làng quê Việt Nam: xởi lởi, cởi mở, tiết kiệm, chắt chiu. Nhưng qua đó cũng hiện lên một mảnh đời cơ cực, nhọc nhằn, vất vả. Ta vừa buồn cười khi bà chẳng dám ăn đồ ăn trên máy bay vì sợ tốn tiền, hay khi bà nhờ cô tiếp viên mở giúp cái cửa sổ máy bay cho thoáng nhưng ta lại càng thương bà cụ hơn khi biết đây là lần đầu tiên trong cuộc đời, người mẹ ấy đi máy bay, bà bày đồ cúng cho con trên máy bay, trên vùng trời con mình là chiến sĩ phi công hy sinh gần 30 năm trước. Khi chứng kiến cái dáng vẻ sợ sệt, van lơn, khẩn khoản của bà cụ với tay vận complet, ta lại càng thương cảm, xót xa.
Về sự kiện cốt truyện, phần đầu truyện, dường như tác giả chỉ kể lại những mẩu đối thoại ngắn ngủi, đơn thuần của bà cụ với các nhân vật khác khiến ta có cảm giác như nghe những màn đối thoại rời rạc, bình thường. Cho đến khi, tiếng nạt của tay vận comple vang lên với bà cụ, tiếng nạt đó không chỉ khiến nhân vật tôi giật mình mà còn là sự đánh thức sự chú ý của bạn đọc. Đến đây, diễn biến của truyện được đẩy lên đến cao trào nhưng cũng chính là sợi dây giúp bạn đọc liên kết tất cả các sự việc xảy ra trước đó: tại sao bà cụ nhắc đến hai chiếc vé máy bay được “các chú không quân cùng đơn vị với con trai già cho”, tại sao bà cụ lại hỏi máy bay sắp qua sông Bến Hải hay chưa? Đọc đến sự việc bà cụ van nài tay vận comple thì người đọc đã tự có được câu trả lời cho mình. Chỉ đến phần cuối của truyện ngắn, mọi bí mật mới được hé lộ. Vì vậy, câu chuyện càng trở nên bất ngờ, hấp dẫn và đọng lại được nhiều suy ngẫm.
Ở phần cuối của truyện, chi tiết “Tôi xoài người sang giữ lấy cái khung ảnh. Tấm ảnh được cắt ra từ một mảnh báo, đã cũ xưa, nhưng người phi công trong ảnh còn rất trẻ.” thực sự là một chi tiết đắt giá. Trong suốt tác phẩm, nhân vật tôi chủ yếu là người đứng ngoài, quan sát kể lại câu chuyện thì đến đây nhân vật tôi đã trực tiếp tham gia vào câu chuyện bằng hành động cụ thể “xoài người ra giữ lấy cái khung ảnh”. Hành động này không chỉ là hành động giúp đỡ bà cụ mà còn khẳng định sâu sắc hơn tình cảm cảm thông, trân quý đối với các bà mẹ có con hi sinh trong chiến đấu và lòng biết ơn những người lính của tác giả. Hơn nữa hình ảnh trong tờ báo “đã xưa cũ”, anh phi công “còn rất trẻ” còn có tác dụng phản ánh hiện thực khốc liệt: chính chiến tranh đã cướp đi tuổi trẻ, cướp đi sự sống của những con người quả cảm ấy và chính chiến tranh đã để lại nỗi đau dai dẳng cho người ở lại. Qua đó, ta thấy được chi tiết này vừa có giá trị hiện thực, vừa có giá trị nhân đạo, nó góp phần quan trọng vào việc thể hiện chủ đề của truyện.
Truyện ngắn “Mây trắng còn bay” là tiếng nói cảm thông, thương cảm với những bà mẹ có con hi sinh trong chiến tranh, xót xa với số phận con người thời chiến – khi họ ngã xuống ở cái tuổiđẹp nhất, hi sinh cuộc đời đểđem lại hoà bình cho dân tộc. Đồng thời tác phẩm là tiếng nói tố cáo chiến tranh, là tiếng nói phê phán lối sống ích kỉ, cá nhân của những người thời bình thờơ trước những hi sinh của những ngườiđã ngã xuống trong thời chiến. “Mây trắng còn bay” còn là sự chiêm nghiệm của tác giả về cuộc đời, vết thương chiến tranh chẳng bao giờ xoá bỏ được, nó còn mãi cùng với sự chảy trôi của cuộc đời như “mây trắng” vẫn bay. Truyện ngắn là bài học về lối sống uống nước nhớ nguồn, là sự trân trọng những hi sinh thầm lặng của con người trước, trong và sau chiến tranh.



