Viết đoann văn phân tích đoạn trích sau : "Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm Có tuổi hai mươi thành sóng nước Vỗ yên bờ, mãi mãi ngàn năm"
Trả lời
GS. Trần Thị Khả Thi
14:18, 26/08/2022
Đất nước ta là đất nước của thơ ca nhạc họa, cho nên cỏ cây sông núi cũng mang hồn thơ văn. Người Việt bẩm sinh đã mang tâm hồn thi sĩ, có lẽ vì vậy mà trong đời dường như không mấy ai lại chưa từng một lần ngân lên một vài câu thơ bộc bạch nỗi niềm riêng của mình. Có những vần thơ thắm đượm của người con trai chia tay người yêu lên đường ra trận, thể hiện một tình yêu chung thủy sắt son. Lại có cả những vần thơ của người lính bật lên ngay trên trận địa tưởng nhớ bao bạn bè vừa ngã xuống. Đó là những tiếng lòng da diết, cháy bỏng yêu thương.
Bài thơ “Lời người bên sông” của Lê Bá Dương là một trong nhiều trường hợp như thế. Trong những năm tháng lăn lộn ở chiến trường Quảng Trị rực lửa, Lê Bá Dương đã chiến đấu ngoan cường dũng cảm và lập được nhiều chiến công xuất sắc. Bàn chân của người chiến sĩ trẻ đã in dấu khắp từ sông Ô Lâu, sông Thạch Hãn, thị trấn Đông Hà, rồi cao điểm Phulơ… Lê Bá Dương từng chứng kiến và nghẹn ngào tiễn biệt biết bao đồng đội thân yêu, có người hy sinh ngay trên trận địa nhưng cũng không ít người vĩnh viễn nằm lại dưới đáy sông. Trong giây phút xuất thần, Lê Bá Dương đã viết nên khúc tưởng niệm “Lời người bên sông”, bài thơ xuất hiện lần đầu trên tạp chí Văn nghệ Mặt trận B5. Nguyên văn như sau:
Đò lên Thạch Hãn ơi… chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Tan chợ chiều xuôi đò có vội
Xin xin đừng khuấy đục dòng trong
Bài thơ tứ tuyệt giống như một lời khẩn cầu nhẹ nhàng mà sâu lắng, rằng ai đó có xuôi ngược trên dòng sông chiến trận năm xưa thì xin hãy nhẹ tay chèo. Khẽ thôi, xin đừng “khuấy đục dòng trong”, các bạn tôi vừa mới có được chút ngơi nghỉ sau những ngày trận mạc. Tiếng “ơi” trong bài là thán từ mà người dân vùng Quảng Trị vẫn thường dùng, nó khiêm nhường nhỏ nhẹ mà vang xa, da diết. Tác giả đã dụng công khi dùng phương ngữ để nói về sự kiện xảy ra ngay trên vùng đất lửa. Dù không có ý phô diễn văn chương và rất kiệm lời nhưng mấy câu thơ mộc mạc ấy vẫn in đậm trong tâm khảm của những người lính từng sống và chiến đấu ở vùng đất đầy máu lửa này.
Bài thơ đã được được khắc trang trọng lên bức tường của Bảo tàng Thành cổ Quảng Trị. Hàng triệu con người đã đến chiêm ngưỡng và không nén nổi xúc động khi nhẩm đọc những dòng thơ xa xót hòa lẫn máu và nước mắt. Dường như đây không còn là thơ nữa mà là những dòng ký thác của những người đi qua cuộc chiến với những đồng chí đồng đội đã hóa thân thành cỏ cây, sông nước. Ấy là nỗi niềm thương nhớ khôn nguôi và lòng biết ơn vô hạn. Tất cả gói gọn chỉ trong ngần ấy câu thơ, mà yêu thương, mà da diết đến khôn cùng.
Cho dù có nhiều dị bản nhưng người đọc vẫn nhận ra cái chất giọng thấm đẫm ân tình của Lê Bá Dương. Đây không chỉ là thơ mà còn là máu xương, là tấm lòng và cao hơn là sự tri ân của cả một thế hệ được sống trong hòa bình nhưng vẫn day dứt khôn nguôi khi nhớ về những người con ưu tú đã dâng hiến trọn tuổi thanh xuân cho đất nước.
Dẫu không phải là một người làm thơ chuyên nghiệp, nhưng chỉ với một bài thơ nhỏ, Lê Bá Dương đã chạm khắc được vẻ đẹp huyền diệu của tâm hồn, neo lại trong lòng bạn đọc, đặc biệt không chỉ với những người lính từng đi qua cuộc chiến đầy khốc liệt mà cho các thế hệ mai sau có dịp thấu hiểu và ngưỡng mộ quá khứ hào hùng của cả một dân tộc đã một thời không quản ngại chiến đấu, hy sinh giành độc lập tự do cho Tổ quốc.
Bài thơ “Lời người bên sông” của Lê Bá Dương là một trong nhiều trường hợp như thế. Trong những năm tháng lăn lộn ở chiến trường Quảng Trị rực lửa, Lê Bá Dương đã chiến đấu ngoan cường dũng cảm và lập được nhiều chiến công xuất sắc. Bàn chân của người chiến sĩ trẻ đã in dấu khắp từ sông Ô Lâu, sông Thạch Hãn, thị trấn Đông Hà, rồi cao điểm Phulơ… Lê Bá Dương từng chứng kiến và nghẹn ngào tiễn biệt biết bao đồng đội thân yêu, có người hy sinh ngay trên trận địa nhưng cũng không ít người vĩnh viễn nằm lại dưới đáy sông. Trong giây phút xuất thần, Lê Bá Dương đã viết nên khúc tưởng niệm “Lời người bên sông”, bài thơ xuất hiện lần đầu trên tạp chí Văn nghệ Mặt trận B5. Nguyên văn như sau:
Đò lên Thạch Hãn ơi… chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Tan chợ chiều xuôi đò có vội
Xin xin đừng khuấy đục dòng trong
Bài thơ tứ tuyệt giống như một lời khẩn cầu nhẹ nhàng mà sâu lắng, rằng ai đó có xuôi ngược trên dòng sông chiến trận năm xưa thì xin hãy nhẹ tay chèo. Khẽ thôi, xin đừng “khuấy đục dòng trong”, các bạn tôi vừa mới có được chút ngơi nghỉ sau những ngày trận mạc. Tiếng “ơi” trong bài là thán từ mà người dân vùng Quảng Trị vẫn thường dùng, nó khiêm nhường nhỏ nhẹ mà vang xa, da diết. Tác giả đã dụng công khi dùng phương ngữ để nói về sự kiện xảy ra ngay trên vùng đất lửa. Dù không có ý phô diễn văn chương và rất kiệm lời nhưng mấy câu thơ mộc mạc ấy vẫn in đậm trong tâm khảm của những người lính từng sống và chiến đấu ở vùng đất đầy máu lửa này.
Bài thơ đã được được khắc trang trọng lên bức tường của Bảo tàng Thành cổ Quảng Trị. Hàng triệu con người đã đến chiêm ngưỡng và không nén nổi xúc động khi nhẩm đọc những dòng thơ xa xót hòa lẫn máu và nước mắt. Dường như đây không còn là thơ nữa mà là những dòng ký thác của những người đi qua cuộc chiến với những đồng chí đồng đội đã hóa thân thành cỏ cây, sông nước. Ấy là nỗi niềm thương nhớ khôn nguôi và lòng biết ơn vô hạn. Tất cả gói gọn chỉ trong ngần ấy câu thơ, mà yêu thương, mà da diết đến khôn cùng.
Cho dù có nhiều dị bản nhưng người đọc vẫn nhận ra cái chất giọng thấm đẫm ân tình của Lê Bá Dương. Đây không chỉ là thơ mà còn là máu xương, là tấm lòng và cao hơn là sự tri ân của cả một thế hệ được sống trong hòa bình nhưng vẫn day dứt khôn nguôi khi nhớ về những người con ưu tú đã dâng hiến trọn tuổi thanh xuân cho đất nước.
Dẫu không phải là một người làm thơ chuyên nghiệp, nhưng chỉ với một bài thơ nhỏ, Lê Bá Dương đã chạm khắc được vẻ đẹp huyền diệu của tâm hồn, neo lại trong lòng bạn đọc, đặc biệt không chỉ với những người lính từng đi qua cuộc chiến đầy khốc liệt mà cho các thế hệ mai sau có dịp thấu hiểu và ngưỡng mộ quá khứ hào hùng của cả một dân tộc đã một thời không quản ngại chiến đấu, hy sinh giành độc lập tự do cho Tổ quốc.



